image banner
Năm 2023 đẩy mạnh chỉnh trang, hiện đại hóa đô thị, xây dựng nông thôn mới kiểu mẫu - Thực hiện chuyển đổi số
Điểm mới của Nghị định 68/2025/NĐ-CP ngày 18/3/2025 của Chính phủ về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 118/2021/NĐ-CP ngày 23/12/2021 quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Xử lý vi phạm hành chính
Lượt xem: 2
Điểm mới của Nghị định 68/2025/NĐ-CP ngày 18/3/2025 của Chính phủ về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 118/2021/NĐ-CP ngày 23/12/2021 quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Xử lý vi phạm hành chính

Điểm mới của Nghị định 68/2025/NĐ-CP ngày 18/3/2025 của Chính phủ về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 118/2021/NĐ-CP ngày 23/12/2021 quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Xử lý vi phạm hành chính

Ngày 18/3/2025, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 68/2025/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 118/2021/NĐ-CP ngày 23/12/2021 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Xử lý vi phạm hành chính (sau đây gọi chung là Nghị định số 68/2025/NĐ-CP). Nghị định có hiệu lực thi hành kể từ ngày 02/5/2025.

Nghị định số 68/2025/NĐ-CP sửa đổi 13/43 điều (chưa bao gồm các nội dung sửa đổi kỹ thuật), bãi bỏ 01 khoản thuộc Điều 15, 01 điểm, 01 khoản, thuộc Điều 17, thay thế 09 biểu mẫu trong Phụ lục kèm theo Nghị định số 118/2021/NĐ-CP. Nghị định số 68/2025/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 118/2021/NĐ-CP ngày 23/12/2021 quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Xử lý vi phạm hành chính cụ thể như sau:

I. Sửa đổ, bổ sung một số quy định: 

1. Bổ sung: quy định về việc yêu cầu quy định biện pháp khắc phục hậu quả tại các nghị định quy định xử phạt vi phạm hành chính trong các lĩnh vực quản lý nhà nước (bổ sung khoản 5a vào sau khoản 5 Điều 4 Nghị định số 118/2021/NĐ-CP)

Nghị định số 68/2025/NĐ-CP bổ sung khoản 5a và sau khoản 5 Điều 4 Nghị định số 118/2021/NĐ-CP theo hướng yêu cầu các nghị định quy định xử phạt vi phạm hành chính trong các lĩnh vực quản lý nhà nước quy định biện pháp khắc phục hậu quả buộc nộp lại số tiền bằng với giá trị tang vật, phương tiện vi phạm hành chính đã bị tiêu thụ, tẩu tán, tiêu hủy trái quy định của pháp luật đối với các hành vi vi phạm có quy định áp dụng hình thức xử phạt tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính nhằm xử lý vướng mắc liên quan đến việc Luật XLVPHC không quy định các biện pháp cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt đối với trường hợp quyết định áp dụng hình thức xử phạt bổ sung tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính.

2. Bổ sung: quy định về nguyên tắc áp dụng văn bản quy phạm pháp luật để xử phạt đối với hành vi vi phạm (bổ sung khoản 3 vào sau khoản 2 Điều 7 Nghị định số 118/2021/NĐ-CP)

Nghị định số 68/2025/NĐ-CP bổ sung khoản 3 vào sau khoản 2 Điều 7 Nghị định số 118/2021/NĐ-CP quy định cụ thể việc áp dụng văn bản quy phạm pháp luật để xử phạt theo hướng quy định áp dụng văn bản quy phạm pháp luật đang có hiệu lực tại thời điểm xem xét, xử lý vụ việc để xác định thẩm quyền, thủ tục và biểu mẫu dung trong xử phạt vi phạm hành chính.

3. Bổ sung: quy định về cách xác định tái phạm, vi phạm hành chính nhiều lần và cách xác định hình thức xử phạt trong trường hợp đó (bổ sung khoản 1a và 1b vào sau khoản 1 Điều 8 Nghị định số 118/2021/NĐ-CP)

Nghị định số 68/2025/NĐ-CP bổ sung quy định về việc xác định các hành vi vi phạm được quy định ở các điểm trong cùng một khoản hoặc các khoản trong cùng một điều với mức độ vi phạm hoặc hậu quả gắn với mức phạt khác nhau và cách xác định khung tiền phạt, khung thời hạn đình chỉ, tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề đối với các trường hợp này, cụ thể:

Thứ nhất, bổ sung khoản 1a vào sau khoản 1 Điều 8 Nghị định số 118/2021/NĐ-CP để quy định nguyên tắc xác định hành vi vi phạm hành chính theo hướng: Cá nhân, tổ chức thực hiện hành vi vi phạm hành chính có mức độ vi phạm hoặc hậu quả gắn với mức phạt khác nhau được quy định ở các điểm trong cùng một khoản hoặc các khoản trong cùng một điều, thì được xác định là vi phạm cùng một hành vi, từ đó, xác định tái phạm hoặc vi phạm hành chính nhiều lần.

Ví dụ cụ thể: Điểm b khoản 2 Điều 7 Nghị định số 168/2024/NĐ-CP quy định xử phạt, trừ điểm giấy phép lái của người điều khiển xe mô tô đối với hành vi “Điều khiển xe chạy quá tốc độ quy định từ 05 km/h đến dưới 10 km/h”; điểm a khoản 4 Điều này cũng quy định hành vi “điều khiển xe chạy quá tốc độ quy định từ 10 km/h đến 20 km/h”. Như vậy, khi cá nhân, tổ chức vi pham 02 hành vi nêu trên vào các thời điểm khác nhau, thì được xác định là thực hiện một hành vi vi phạm và có thể bị xử phạt vi phạm hành chính và áp dụng tình tiết tăng nặng tái pháp hoặc vi phạm hành chính nhiều lần (trong trường hợp Nghị định quy định vi phạm hành chính nhiều lần là tình tiết tăng nặng).

Thứ hai, bổ sung khoản 1b vào sau khoản 1a Điều 8 Nghị định số 118/2021/NĐ-CP để quy định nguyên tắc áp dụng hình thức xử phạt đối với vi phạm hành chính nhiều lần theo hướng: nếu hành vi vi phạm hành chính nhiều lần được quy định là tình tiết tăng nặng và thuộc trường hợp quy định tại khoản 1a Điều này của Nghị định số 118/2021/NĐ-CP thì sẽ bị áp dụng khung tiền phạt cao nhất, khung thời hạn đình chỉ, tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề với thời hạn dài nhất quy định đối với hành vi đó trong các lần vi phạm.

4. Sửa đổi, bổ sung: quy định về cách xác định hình thức xử phạt (sửa đổi, bổ sung Điều 9 Nghị định số 118/2021/NĐ-CP)

Nghị định số 68/2025/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số quy định trong việc xác định hình thức xử phạt như sau:

4.1. Xác định mức phạt tiền trong trường hợp có tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ

Nghị định số 68/2025/NĐ-CP quy định nguyên tắc áp dụng mức phạt tiền khi có tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ theo hướng linh hoạt, theo đúng tinh thần của khoản 4 Điều 23, khoản 3 Điều 25 Luật XLVPHC, đồng thời, quy định nếu nghị định xử phạt vi phạm hành chính trong các lĩnh vực nhà nước có quy định nguyên tắc xác định tiền phạt cụ thể đối với một hành vi vi phạm hành chính trong trường hợp có tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ thì áp dụng theo quy định tại nghị định đó. Nếu chưa có quy định cụ thể thì áp dụng theo nguyên tắc sau:

Thứ nhất, mức phạt tiền cụ thể đối với một hành vi vi phạm hành chính là mức trung bình của khung phạt tiền được quy định đối với hành vi đó.

Thứ hai, nếu có 01 tình tiết giảm nhẹ thì mức tiền phạt cụ thể được xác định từ trên mức tối thiểu đến dưới mức trung bình của khung tiền phạt. Nếu có từ 02 tình tiết giảm nhẹ trở lên thì áp dụng mức tối thiểu của khung tiền phạt đối với hành vi đó.

Thứ ba, tương tự như cách xác định mức tiền phạt khi có 01 tình tiết giảm nhẹ, khi có 01 tình tiết tăng nặng thì mức tiền phạt cụ thể sẽ là từ trên mức trung bình đến dưới mức tối đa của khung và khi có từ 02 tình tiết tăng nặng trở lên sẽ bị áp dụng mức tối đa của khung tiền phạt đối với hành vi đó.

Thứ tư, trong trường hợp vừa có tình tiết tăng nặng, vừa có tình tiết giảm nhẹ thì giảm trừ 01 tình tiết tăng nặng với 01 tình tiết giảm nhẹ, tương tự như vậy với những tình tiết tiếp theo.

4.2. Xác định thời hạn tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề, đình chỉ hoạt động trong trường hợp có tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ

Nghị định số 68/2025/NĐ-CP quy định về việc xác định thời hạn tước quyền sử dụng giấy phép chứng chỉ hành nghề, đình chỉ hoạt động thống nhất với cách xác định mức phạt tiền đối với từng trường hợp cụ thể khi có tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ.

Ngoài ra, Nghị định cũng quy định không áp dụng nguyên tắc này khi nghị định xử phạt vi phạm hành chính trong các lĩnh vực nhà nước đã quy định về nguyên tắc xác định thời hạn tước giấy phép, chứng chỉ hành nghề, đình chỉ hoạt động khi có tình tiết giảm nhẹ, tình tiết tăng nặng mà sẽ áp dụng theo quy định tại các nghị định đó.

4.3. Áp dụng hình thức xử phạt tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề có thời hạn

Thứ nhất, nhằm tháo gỡ những vướng mắc khi thực hiện việc xác định thời hạn tước giấy phép, chứng chỉ hành nghề trong từng trường hợp cụ thể, Nghị định số 68/2025/NĐ-CP đã sửa đổi, bổ sung quy định của Nghị định số 118/2025/NĐ-CP về áp dụng hình thức xử phạt tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề theo hướng quy định rõ thời hạn tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề trong từng trường hợp cụ thể như sau:

(i) Khi cá nhân, tổ chức bị xử phạt nhiều hành vi vi phạm có áp dụng hình thức xử phạt tước đối với các loại giấy phép, chứng chỉ hành nghề khác nhau trong cùng một lần thì áp dụng khung thời gian tước của từng loại giấy phép, chứng chỉ hành nghề;

(ii) Khi cá nhân, tổ chức bị xử phạt nhiều hành vi vi phạm trong cùng một lần, trong đó, có từ 02 hành vi trở lên bị áp dụng hình thức tước quyền sử dụng với cùng một loại giấy phép, chứng chỉ hành nghề với nhiều khung thời gian tước khác nhau thì áp dụng khung thời gian tước quyền sử dụng của hành vi bị xử phạt có quy định thời hạn tước dài nhất;

(iii) Khi cá nhân, tổ chức vi phạm hành chính nhiều lần và thuộc trường hợp quy định tại khoản 1a Điều 8 mà bị xử phạt về từng hành vi, trong đó, có áp dụng hình thức tước quyền sử dụng giấy phép có thời hạn đối với cùng một loại giấy phép, thì apsd ụng khung thời gian tước quyền sử dụng dài nhất quy định đối với hành vi đó trong các lần vi phạm.

Thứ hai, khi thời hạn còn lại của giấy phép, chứng chỉ hành nghề ngắn hơn thời hạn tước quyền sử dụng thì vẫn áp dụng thời hạn tước quyền sử dụng theo quy định đối với hành vi vi phạm. Đồng thời, sau khi cơ quan, tổ chức có thẩm quyền cấp giấy phép, chứng chỉ hành nghề thực hiện việc cấp đổi hoặc cấp mới giấy phép, chứng chỉ hành nghề thì cá nhân, tổ chức bị tước giấy phép, chứng chỉ hành nghề theo quyết định xử phạt cũng không được tiến hành các hoạt động ghi trong giấy phép, chứng chỉ hành nghề. Nếu cá nhân, tổ chức bị xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi có áp dụng hình thức tước quyền sử dụng có thời hạn mà giấy phép, chứng chỉ hành nghề trong thời gian tước theo quyết định xử phạt vi phạm hành chính thì cá nhân, tổ chức bị coi là hoạt động không có giấy phép, chứng chỉ hành nghề.

Thứ ba, thẩm quyền áp dụng hình thức xử phạt này thực hiện theo quy định tại Luật Xử lý vi phạm hành chính mà không phụ thuộc vào thẩm quyền cấp giấy phép, chứng chỉ đó.

4.4. Áp dụng hình thức xử phạt đình chỉ hoạt động có thời hạn:

Khi xác định thời hạn đình chỉ hoạt động có thời hạn, cũng xác định dựa trên các trường hợp và nguyên tắc xác định thời hạn đình chỉ hoạt động trong từng trường hợp tương tự như nguyên tắc xác định thời hạn tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề.

4.5. Tạm giữ, giữ giấy phép, chứng chỉ hành nghề trong xử phạt vi phạm hành chính:

Nhằm triển khai kịp thời, hiệu quả và đồng bộ với Quyết định số 06/QĐ-TTg, thực thi các phương án đơn giản hóa thủ tục hành chính, thì cần phải có quy định về việc ứng dụng cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, hệ thống định danh và xác thực điện tử, thẻ Căn cước công dân gắn chip điện tử, tạo sự linh hoạt trong quy trình xử phạt vi phạm hành chính. Do đó, Nghị định số 68/2025/NĐ-CP đã bổ sung quy định người có thẩm quyền có trách nhiệm kiểm tra thông tin về giấy phép, chứng chỉ hành nghề của cá nhân, tổ chức vi phạm từ các cơ sở dữ liệu, căn cước điện tử, tài khoản định danh điện tử theo quy định; nếu không thể kiểm tra được thông tin thì yêu cầu cá nhân, tổ chức vi phạm xuất trình giấy phép, chứng chỉ hành nghề.

Tuy nhiên, khi tạm giữ hoặc áp dụng hình thức tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề thì cá nhân, tổ chức vi phạm vẫn phải giao nộp giấy phép, chứng chỉ hành nghề theo quy định trừ trường hợp giấy phép, chứng chỉ được cấp dưới dạng điện tử hoặc được thể hiện dưới hình thức thông điệp dữ liệu thì thực hiện việc tạm giữ, tước trên môi trường điện tử theo quy định nếu đáp ứng được điều kiện về cơ sở vật chất, hạ tầng kỹ thuật, thông tin. Việc tạm giữ, tước giấy phép chứng chỉ theo hình thức này sẽ được cập nhật trạng thái trên cơ sở dữ liệu hoặc căn cước điện tử theo đúng quy định.

Việc lập, giao nộp biên bản tạm giữ cho người vi phạm, gửi quyết định xử phạt vi phạm hành chính có áp dụng hình thức tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề đến cơ quan đã cấp giấy phép, chứng chỉ hành nghề được thực hiện như quy định tại Nghị định số 118/2021/NĐ-CP. Tuy nhiên, cùng với việc ứng dụng công nghệ, khoa học, kỹ thuật vào việc quản lý nhà nước, sau khi nhận được quyết định xử phạt do người có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính gửi đến thì cơ quan có cấp phép phải cập nhật thông tin về việc giữ, tước giấy phép, chứng chỉ hành nghề vào cơ sở dữ liệu.

5. Sửa đổi, bổ sung: quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động thanh tra (sửa đổi, bổ sung quy định tại Điều 11 Nghị định số 118/2021/NĐ-CP)

Thứ nhất, sửa đổi tên gọi của Điều 11 từ “thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính của Trưởng đoàn Thanh tra chuyên ngành” thành “xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động thành tra”.

Thứ hai, dự thảo Nghị định dự kiến bổ sung quy định về thẩm quyền đính chính, sửa đổi, bổ sung, huỷ bỏ quyết định, cưỡng chế thi hành đối với quyết định xử phạt vi phạm hành chính của Trưởng đoàn thanh tra chuyên ngành theo thứ tự như sau: Trưởng đoàn; người ra quyết định thanh tra; Chánh Thanh tra cấp có thẩm quyền xử phạt đối với vụ ciệc hoặc Thủ trưởng cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành có thẩm quyền xử phạt đối với vụ việc hoặc Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền.

6. Sửa đổi, bổ sung: quy định về lập biên bản vi phạm hành chính (sửa đổi, bổ sung Điều 12 Nghị định số 118/2021/NĐ-CP)

- Bổ sung các quy định về căn cứ lập biên bản vi phạm hành chính: biên bản, tài liệu ghi nhận vi phạm được phát hiện trong quá trình thanh tra, kiểm tra, thực hiện hoạt động quản lý nhà nước hoặc tiến hành tố tụng.

- Tăng thời hạn lập biên bản vi phạm hành chính đối với một số trường hợp cụ thể.

- Sửa đổi, bổ sung quy định về lập biên bản vi phạm hành chính trong trường hợp chuyển hồ sơ đến cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng và trường hợp hồ sơ vụ việc vi phạm hành chính do cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng chuyển đến.

- Sửa đổi, bổ sung các quy định về việc lập biên bản vi phạm hành chính trong một số trường hợp, đặc biệt là quy định cụ thể hơn trường hợp lập biên bản vi phạm hành chính đối với vụ việc có nhiều hành vi vi phạm hành chính, trong đó có các hành vi vi phạm hành chính thuộc thẩm quyền, hành vi vi phạm không thuộc không thuộc thẩm quyền hoặc hành vi có dấu hiệu vi phạm hành chính.

- Bổ sung quy định về việc chuyển biên bản vi phạm hành chính được lập trên biển, trên tàu bay, tàu biển, tàu hỏa.

- Lược bỏ các quy định đã được quy định tại Luật XLVPHC hoặc sửa đổi theo hướng viện dẫn Luật XLVPHC và rà soát, chỉnh sửa một cách tổng thể để bảo đảm các nội dung tại Điều này có sự thống nhất với nhau.

7. Sửa đổi, bổ sung quy định về hủy bỏ, ban hành quyết định mới, đính chính, sửa đổi, bổ sung, hủy bỏ một phần quyết định trong xử phạt vi phạm hành chính hiệu lực thời hạn, thời hiệu thi hành các quyết định đó (sửa đổi, bổ sung các Điều 13, 14, 16 Nghị định số 118/2021/NĐ-CP)

7.1. Sửa đổi, bổ sung quy định về hủy bỏ, ban hành quyết định mới trong xử phạt vi phạm hành chính

Thứ nhất, về căn cứ hủy bỏ, ban hành quyết định mới

Nghị định số 68/2025/NĐ-CP đã thu hẹp phạm vi các trường hợp phải huỷ bỏ toàn bộ quyết định. Theo đó, các trường hợp áp dụng hình thức xử phạt không đầy đủ, áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả không đúng, không đầy đủ thì sẽ không phải huỷ bỏ toàn bộ quyết định; không quy định tất cả các quyết định vi phạm về thủ tục ban hành quyết định đều phải hủy bỏ, mà chỉ các quyết định vi phạm thủ tục dẫn đến các trường hợp: ra quyết định đối với những trường hợp không ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính, quyết định được ban hành không đúng thẩm quyền, giả mạo, làm sai lệch hồ sơ, xác định hành vi vi phạm không đúng hoặc xác định hành vi vi phạm trong trường hợp không có hành vi vi phạm xảy ra.

Thứ hai, quy định cụ thể các loại quyết định trong xử phạt vi phạm hành chính được áp dụng các quy định về huỷ bỏ, ban hành mới quyết định theo quy định tại Điều này, theo đó, loại trừ các quyết định áp dụng biện pháp ngăn chặn và bảo đảm xử lý vi phạm hành chính.

Thứ ba, bổ sung trường hợp huỷ bỏ toàn bộ quyết định xử phạt trong trường hợp cần thiết phải xác minh tình tiết của vụ việc vi phạm hành chính theo quy định tại Điều 59 Luật XLVPHC.

Thứ tư, bổ sung thời hạn ban hành quyết định mới đối với một số trường hợp là không quá 07 ngày kể từ ngày lập biên bản xác minh tình tiết của vụ việc vi phạm hành chính.

Thứ năm, bổ sung thẩm quyền huỷ bỏ quyết định: Tòa án hoặc Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền nơi xảy ra vi phạm hoặc người có thẩm quyền xử phạt trong lĩnh vực quản lý nhà nước (trong trường hợp người đã ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính có sự thay đổi về nhiệm vụ, quyền hạn hoặc cơ cấu tổ chức dẫn đến không còn thẩm quyền xử phạt hoặc không còn tồn tại chức danh đó trên thực tế).

7.2. Sửa đổi, bổ sung quy định về đính chính, sửa đổi, bổ sung, hủy bỏ một phần quyết định trong xử phạt vi phạm hành chính

Thứ nhất, về cơ bản, căn cứ để đính chính, sửa đổi, bổ sung, hủy bỏ một phần quyết định trong xử phạt vi phạm hành chính được quy định tại Nghị định số 68/2025/NĐ-CP vẫn được quy định tương tự như với quy định của Nghị định số 118/2025/NĐ-CP. Tuy nhiên, do căn cứ hủy bỏ toàn bộ quyết định xử phạt vi hạm hành chính đã xác định trường hợp vi phạm về thủ tục (mà không dẫn đến vi phạm các vi phạm tại các điểm c, d, e, g và h khoản 1 Điều 13 Nghị định này) không quy định phải hủy bỏ thì việc căn cứ để sửa đổi, bổ sung, hủy bỏ một phần cũng phải được quy định cho phù hợp theo hướng sẽ không sửa đổi, bổ sung, hủy bỏ một phần đối với trường hợp này.

Thứ hai, Nghị định số 68/2025/NĐ-CP cũng quy định về nguyên tắc xác định thẩm quyền đính chính, sửa đổi, bổ sung, hủy bỏ một phần quyết định khi chức danh có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính đã ra quyết định xử phạt nhưng có sự thay đổi về nhiệm vụ, quyền hạn hoặc cơ cấu, tổ chức dẫn đến không còn thẩm quyền xử phạt hoặc không còn chức danh đó như quy định đối với việc hủy bỏ, ban hành quyết định mới.

Thứ ba, quy định về đính chính, sửa đổi, bổ sung, hủy bỏ một phần không áp dụng đối với việc đính chính, sửa đổi, bổ sung, hủy bỏ một phần các quyết định áp dụng biện pháp ngăn chặn và bảo đảm xử lý vi phạm hành chính.

7.3. Sửa đổi, bổ sung: quy định về hiệu lực, thời hạn, thời hiệu thi hành quyết định đính chính sửa đổi, bổ sung, huỷ bỏ hoặc ban hành mới

Để bảo đảm phù hợp với Luật XLVPHC và thực tiễn thi hành, Nghị định số 68/2025/NĐ-CP đã sửa đổi, bổ sung quy định về hiệu lực, thời hạn, thời hiệu thi hành quyết định đính chính sửa đổi, bổ sung, huỷ bỏ hoặc ban hành mới như sau:

Thứ nhất, chỉ áp dụng thời hạn, thời hiệu đối với các trường hợp liên quan đến quyết định xử phạt hoặc quyết định cưỡng chế mà Luật XLVPHC có quy định về thời hạn, thời hiệu.

Thứ hai, sửa đổi quy định về thời hiệu thi hành quyết định đính chính sửa đổi, bổ sung, huỷ bỏ và quyết định mới, theo đó, các quyết định phải được thi hành kể từ ngày ban hành các quyết định này cho đến thời điểm chấm dứt hiệu lực thi hành quyết định quy định tại Điều 74 Luật XLVPHC. Việc giao quyết định được thực hiện theo quy định tại Điều 70 Luật XLVPHC.

Thứ ba, sửa đổi quy định về hiệu lực của quyết định đính chính sửa đổi, bổ sung, huỷ bỏ và quyết định mới theo hướng phải có hiệu lực ngay kể từ ngày ký.

8. Sửa đổi, bổ sung: quy định về chuyển quyết định xử phạt vi phạm hành chính để tổ chức thi hành (sửa đổi, bổ sung Điều 22 Nghị định số 118/2021/NĐ-CP)

Hiện nay, Điều 22 Nghị định số 118/2021/NĐ-CP hiện nay đang quy định thẩm quyền xem xét hoãn, giảm, miễn tiền phạt do người có thẩm quyền tại cơ quan tiếp nhận quyết định xử phạt để thi hành có trách nhiệm tiếp nhận, xem xét, quyết định không phù hợp với Điều 76 và Điều 77 Luật XLVPHC (thẩm quyền xem xét hoãn, giảm, miễn tiền phạt do người đã ban hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính xem xét, quyết định), do đó, Nghị định số 68/2025/NĐ-CP đã sửa đổi, bổ sung Điều này để bảo đảm phù hợp với các quy định tại Điều 76 và Điều 77 Luật XLVPHC.

9. Sửa đổi, bổ sung: quy định về xác định thẩm quyền xử phạt và tạm giữ tang vật, phương tiện vi phạm hành chính trong một số trường hợp (sửa đổi, bổ sung Điều 24 Nghị định số 118/2021/NĐ-CP)

Nghị định số 68/2025/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung toàn bộ Điều 24 Nghị định số 118/2021/NĐ-CP, theo đó, thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính, áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả được xác định theo quy định tại Điều 52 Luật Xử lý vi phạm hành chính. Tuy nhiên, Nghị định đã bổ sung quy định về cách xác định thẩm quyền xử phạt và tạm giữ tang vật, phương tiện vi phạm hành chính trong một số trường hợp cụ thể như sau:

Thứ nhất, đối với vụ việc do người có thẩm quyền thuộc cơ quan trung ương được tổ chức theo ngành dọc đóng tại địa phương đang thụ lý, giải quyết nhưng phải chuyển đến người có thẩm quyền xử phạt thì việc chuyển hồ sơ có thể được quy định cụ thể tại các nghị định quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong từng lĩnh vực quản lý nhà nước hoặc theo thứ tự sau đây:

(i) Người có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính thuộc cơ quan trung ương được tổ chức theo ngành dọc tại địa phương.

(ii) Chánh Thanh tra bộ hoặc người có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính cao nhất trong ngành, lĩnh vực quản lý hoặc Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền xử phạt nơi xảy ra vi phạm.

Tuy nhiên, nếu vụ việc có tang vật, phương tiện vi phạm hành chính là bất động sản, tàu bay, tàu biển, phương tiện thủy nội địa, các loại hàng hóa, phương tiện cồng kềnh, khó vận chuyển, chi phí vận chuyển cao thì thẩm quyền xử phạt thuộc Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền xử phạt nơi xảy ra vi phạm.

Thứ hai, đối với vụ việc vi phạm hành chính có nhiều hành vi vi phạm thuộc các lĩnh vực quản lý nhà nước khác nhau mà trong đó có hành vi vi phạm không thuộc thẩm quyền xử phạt của Chủ tịch Ủy ban nhân dân, thì thực hiện như sau:

(i) Đối với những hành vi thuộc thẩm quyền xử phạt của Chủ tịch Ủy ban nhân dân thì thẩm quyền xử phạt thuộc Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền xử phạt nơi xảy ra vi phạm;

(ii) Đối với những hành vi không thuộc thẩm quyền xử phạt của Chủ tịch Ủy ban nhân dân thì xác định như sau: Nếu hình thức, mức xử phạt, trị giá tang vật, phương tiện bị tịch thu, biện pháp khắc phục hậu quả được quy định đối với từng hành vi vi phạm đều thuộc thẩm quyền của người xử phạt thì thẩm quyền xử phạt vẫn thuộc người đó; Nếu hình thức, mức xử phạt, trị giá trị giá tang vật, phương tiện bị tịch thu, biện pháp khắc phục hậu quả được quy định đối với một trong các hành vi vượt quá thẩm quyền của người xử phạt thì người đó phải chuyển vụ vi phạm đến cấp có thẩm quyền xử phạt.

Thứ ba, sửa đổi, bổ sung quy định về xác định thẩm quyền xử phạt đối với trường hợp tang vật, phương tiện vi phạm hành chính là hàng cấm tàng trữ, cấm lưu hành theo hướng mở rộng hơn, không dồn vụ việc lên người có thẩm quyền xử phạt cao nhất hay Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh như sau:

(i) Nếu người đang giải quyết vụ việc thuộc ngành, lĩnh vực mình quản lý quy định tại các điều từ Điều 39 đến Điều 49 và Điều 51 Luật Xử lý vi phạm hành chính không có thẩm quyền tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính hoặc thẩm quyền tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính phụ thuộc vào thẩm quyền phạt tiền thì phải chuyển vụ vi phạm đến người có thẩm quyền xử phạt trong ngành, lĩnh vực đó có thẩm quyền tịch thu không phụ thuộc vào giá trị của tang vật, phương tiện vi phạm hành chính;

(ii) Nếu người đang giải quyết vụ việc không thuộc trường hợp quy định tại điểm a khoản này thì phải chuyển vụ vi phạm đến Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền xử phạt nơi xảy ra vi phạm;

(iii) Nếu người đang giải quyết vụ việc có căn cứ để xác định giá trị tang vật, phương tiện vi phạm hành chính là hàng cấm tàng trữ, cấm lưu hành, thì thẩm quyền xử phạt được xác định theo quy định tại Chương II Phần thứ hai Luật Xử lý vi phạm hành chính và quy định của nghị định về xử phạt vi phạm hành chính.

Ngoài ra, Nghị định số 68/2025/NĐ-CP còn sửa đổi tên gọi của Điều 24 từ “xác định thẩm quyền xử phạt trong trường hợp tang vật, phương tiện vi phạm hành chính là hàng cấm tàng trữ, cấm lưu hành” thành “xác định thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính và áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả trong một số trường hợp” để bảo đảm tính bao quát đối với toàn bộ các quy định tại Điều này.

10. Sửa đổi, bổ sung: các quy định về quản lý nhà nước trong thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính

Thứ nhất, Nghị định số 68/2025/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung khoản 1 Điều 31 Nghị định số 118/2021/NĐ-CP theo hướng chỉ quy định trách nhiệm chung, không quy định cụ thể nội dung này mà thực hiện theo Nghị định số 19/2020/NĐ-CP.

Thứ hai, Nghị định số 68/2025/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số quy định về nội dung của Báo cáo công tác thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính tại khoản 2 Điều 35 Nghị định số 118/2021/NĐ-CP như: bổ sung nội dung “các loại hành vi vi phạm phổ biến” tại điểm a khoản 2; sửa đổi, bổ sung điểm b khoản 2 thành: “b) Số lượng vụ vi phạm hành chính, vụ bị xử phạt vi phạm hành chính, vụ không ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính theo Điều 65 Luật Xử lý vi phạm hành chính, vụ đã bị lập biên bản vi phạm hành chính nhưng chưa ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính; đối tượng bị xử phạt;”; bỏ nội dung “số giấy phép, chứng chỉ hành nghề bị tước quyền sử dụng có thời hạn; số vụ bị đình chỉ hoạt động có thời hạn” tại điểm c khoản 2. Bổ sung nội dung “Số lượng đối tượng đang chấp hành biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn; tạm đình chỉ hoặc miễn chấp hành phần thời gian còn lại;” trong Báo cáo về tình hình áp dụng biện pháp xử lý hành chính tại khoản 3 Điều 35 Nghị định số 118/2021/NĐ-CP.

Thứ ba, sửa đổi, bổ sung quy định về trách nhiệm của bộ, cơ quan ngang bộ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao:

(i) Trách nhiệm về xây dựng Cơ sở dữ liệu về xử lý vi phạm hành chính trong phạm vi ngành, lĩnh vực mình quản lý, tích hợp với Cơ sở dữ liệu quốc gia về xử lý vi phạm hành chính tại Bộ Tư pháp;

(ii) Trách nhiệm thực hiện thanh tra, kiểm tra tình hình thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính theo thẩm quyền.

(iii) Trách nhiệm hướng dẫn thực hiện pháp luật về xử lý vi phạm hành chính theo thẩm quyền hoặc theo đề nghị của bộ, ngành, địa phương để thống nhất với trách nhiệm của Bộ Tư pháp, cũng như phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của các bộ, cơ quan ngang bộ;

(iv) Trách nhiệm của Bộ Công an trong việc báo cáo tình hình áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn; đưa vào trường giáo dưỡng; đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc; đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc theo nội dung quy định tại các điểm a, c, d, đ, e, g, g1, h, i và k khoản 3 Điều 35 của Nghị định này;

(v) Trách nhiệm trong việc phân công đầu mối thực hiện nhiệm vụ chủ trì, giúp Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ quản lý công tác thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính trong các lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý.

11. Bổ sung: quy định về việc ghi nội dung biểu mẫu (bổ sung khoản 4a và 4b vào sau khoản 4 Điều 8 Nghị định số 118/2021/NĐ-CP)

Nghị định số 68/2025/NĐ-CP đã bổ sung quy định về việc ghi nội dung biểu mẫu trong xử phạt vi phạm hành chính đối với các đối tượng cụ thể:

Thứ nhất, đối tượng vi phạm là hộ gia đình, hộ kinh doanh, cộng đồng dân cư được ghi tại phần thông tin của tổ chức, cụ thể như sau:

- Tại mục ghi “tên của tổ chức”: Ghi rõ tên chủ hộ gia đình đối với đối tượng là hộ gia đình, ghi rõ tên của hộ kinh doanh theo quy định của Chính phủ về đăng ký doanh nghiệp đối với đối tượng là hộ kinh doanh, ghi rõ cụm từ “cộng đồng dân cư” gắn với địa chỉ đối với đối tượng là cộng đồng dân cư;

- Tại mục ghi “mã số doanh nghiệp”: Ghi mã số hộ kinh doanh đối với đối tượng vi phạm là hộ kinh doanh, gạch chéo đối với đối tượng là hộ gia đình và cộng đồng dân cư;

- Tại mục ghi “số giấy chứng nhận đăng ký đầu tư/doanh nghiệp hoặc giấy phép thành lập/đăng ký hoạt động”: ghi “số giấy chứng nhận đăng ký hộ kinh doanh” đối với đối tượng vi phạm là hộ kinh doanh, gạch chéo đối với đối tượng là hộ gia đình và cộng đồng dân cư;

- Tại mục ghi “người đại diện theo pháp luật”, ghi rõ họ và tên chủ hộ gia đình đối với hộ gia đình, ghi rõ họ và tên chủ hộ kinh doanh đối với đối tượng hộ kinh doanh, ghi rõ họ và tên người đại diện cho cộng đồng dân cư là trưởng thôn, làng, ấp, bản, bon, buôn, phum, sóc, tổ dân phố và điểm dân cư tương tự hoặc người được cộng đồng dân cư thỏa thuận cử ra đối với đối tượng là cộng đồng dân cư.

Thứ hai, đối tượng vi phạm là tổ hợp tác, chi nhánh, văn phòng đại diện, địa điểm kinh doanh của pháp nhân, tổ chức được ghi tại phần thông tin của tổ chức, cụ thể như sau:

- Tại mục ghi “tên của tổ chức”, ghi rõ tên của tổ hợp tác theo quy định của Chính phủ về tổ hợp tác với đối tượng là tổ hợp tác, ghi rõ tên chi nhánh, văn phòng đại diện, địa điểm kinh doanh theo quy định pháp luật về doanh nghiệp đối với đối tượng là chi nhánh, văn phòng đại diện, địa điểm kinh doanh;

- Tại mục ghi “mã số doanh nghiệp”, ghi mã số tổ hợp tác đối với đối tượng vi phạm là tổ hợp tác, ghi mã số chi nhánh đối với đối tượng vi phạm là chi nhánh, ghi mã số văn phòng đại diện đối với đối tượng vi phạm là văn phòng đại diện, ghi mã số địa điểm kinh doanh đối với đối tượng vi phạm là địa điểm kinh doanh;

- Tại mục ghi “người đại diện theo pháp luật”, ghi họ và tên người đại diện theo ủy quyền của các thành viên tổ hợp tác đối với đối tượng là tổ hợp tác, ghi họ và tên của người người đứng đầu chi nhánh, văn phòng đại diện, địa điểm kinh doanh đối với đối tượng là chi nhánh, văn phòng đại diện, địa điểm kinh doanh.

II. Bổ sung, thay thế, bãi bỏ

1. Bổ sung, thay thế, bãi bỏ: một số từ, cụm từ, khoản thuộc điều và biểu mẫu của Nghị định số 118/2021/NĐ-CP

12.1. Bổ sung, thay thế, bãi bỏ một số cụm từ tại Nghị định số 118/2021/NĐ-CP

(i) Bổ sung 02 từ “vụ” vào trước 02 từ “bưu chính” tại điểm c khoản 2 Điều 20 của Nghị định số 118/2021/NĐ-CP;

(ii) Bãi bỏ cụm từ “và trật tự, an toàn xã hội” tại điểm c khoản 3 Điều 5 của Nghị định số 118/2021/NĐ-CP;

(iii) Bãi bỏ các cụm từ “ma tuý,” và “vật thuộc loại cấm tàng trữ, cấm lưu hành,” tại khoản 6 Điều 5 của Nghị định số 118/2021/NĐ-CP;

(iv) Bổ sung từ “xử lý” vào trước cụm từ “vi phạm hành chính” thứ hai tại khoản 5 Điều 31 của Nghị định số 118/2021/NĐ-CP;

(v) Bãi bỏ cụm từ “, Bảo hiểm xã hội Việt Nam” tại các khoản 2 và 3 Điều 31, khoản 1 Điều 33, điểm c khoản 1 Điều 36, tên Điều 37, tên khoản 1 Điều 37, điểm e khoản 1 Điều 37 và tên khoản 2 Điều 37 của Nghị định số 118/2021/NĐ-CP;

(vi) Bổ sung cụm từ “hoặc theo kế hoạch” vào sau cụm từ “quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức” tại khoản 1 Điều 32 của Nghị định số 118/2021/NĐ-CP;

(vii) Bãi bỏ cụm từ “Bảo hiểm xã hội Việt Nam,” tại điểm a khoản 2 Điều 37 của Nghị định số 118/2021/NĐ-CP;

(viii) Thay thế cụm từ “các khoản 1, 2 và 5 Điều 37” bằng cụm từ ‘khoản 1, các điểm a và d khoản 2, khoản 5 Điều 37” tại khoản 1 Điều 38 của Nghị định số 118/2021/NĐ-CP.

2. Bãi bỏ, thay thế một số quy định tại Nghị định số 118/2021/NĐ-CP

2.1. Bãi bỏ: khoản 3 Điều 15, khoản 4 Điều 17 và điểm b khoản 2 Điều 37 của Nghị định số 118/2021/NĐ-CP.

2.2. Thay thế: các biểu mẫu tại Phụ lục một số biểu mẫu trong xử phạt vi phạm hành chính ban hành kèm theo Nghị định số 118/2021/NĐ-CP

Thay thế các mẫu quyết định số 01, mẫu quyết định số 02, mẫu quyết định số 11, mẫu quyết định số 38, mẫu quyết định số 39, mẫu quyết định số 40, mẫu biên bản số 01, mẫu biên bản số 05 và mẫu biên bản số 27 tại “Phụ lục một số biểu mẫu trong xử phạt vi phạm hành chính” ban hành kèm theo Nghị định số 118/2021/NĐ-CP bằng lần lượt các mẫu quyết định số 01, mẫu quyết định số 02, mẫu quyết định số 11, mẫu quyết định số 38, mẫu quyết định số 39, mẫu quyết định số 40, mẫu biên bản số 01, mẫu biên bản số 05 và mẫu biên bản số 27 ban hành kèm theo Nghị định này./.

btvxathanhson
QR Code
image advertisement
image advertisement
image advertisement
Tin mới